Monday, 20 September 2021

Chất dưỡng ẩm trong chăm sóc da - Dịch- Bs. Trương Tấn Minh Vũ

 



Link tải file pdf: https://drive.google.com/file/d/1QJYFAHEkdNiJxObPcTDoFPQq9hUnDsrN/view?usp=sharing

SẢN PHẨM LÀM SẠCH TRONG CHĂM SÓC DA - Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ


 


https://drive.google.com/file/d/1V7eBAMB1SeqzibrkZ-dMAWKzON4m3zBf/view?usp=sharing

DA NHẠY CẢM- Sinh lý bệnh và kiểm soát - Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

 


Link tải file pdf: https://drive.google.com/file/d/1apoRtSwCPTFU3KONmd8kHyHHNBQCzK5k/view?usp=sharing

DA NHẠY CẢM - Bs. Trương Tấn Minh Vũ



TỔNG QUÁT
- Da nhạy cảm là một hội chứng được xác định bởi sự xuất hiện của các cảm giác khó chịu (cảm giác châm chích, bỏng rát, đau, ngứa và ngứa ran) khi đáp ứng với các kích thích mà thông thường sẽ không gây ra những cảm giác này.
NGUYÊN NHÂN
*** CHỨC NĂNG HÀNG RÀO DA
- Hàng rào bảo vệ da có nhiều chức năng và bảo vệ chúng ta khỏi các mối đe dọa từ bên ngoài như hóa chất, tác nhân lây nhiễm và chất gây dị ứng.
- Người ta còn biết rất ít về làn da nhạy cảm và mối liên quan của nó với chức năng hàng rào bảo vệ da. Có thể giả định rằng da nhạy cảm có thể liên quan đến, ví dụ: tăng tính thấm của hàng rào bảo vệ da, khô da, bị cản trở chức năng bởi các bệnh ngoài da như viêm da dị ứng (AD) và bệnh trứng cá đỏ, hoặc có thể liên quan đến tăng mất nước qua biểu bì (TEWL) và giảm lượng yếu tố giữ ẩm tự nhiên.
*** VAI TRÒ CỦA LỚP SỪNG
- Các đối tượng có làn da nhạy cảm đã được báo cáo là có lớp sừng mỏng hơn với giảm số lượng tế bào sừng hoá gây ra sự xâm nhập qua da cao hơn của các hóa chất tan trong nước.
- Có một lớp sừng mỏng dễ thấm, khiến những đối tượng này dễ bị kích ứng với hóa chất hơn. Hơn nữa, chức năng hàng rào bị suy giảm ở da nhạy cảm đã được báo cáo là do sự mất cân bằng của các lipid gian bào của lớp sừng
*** LIÊN QUAN VỚI VIÊM DA VÀ CƠ ĐỊA DỊ ỨNG
- Một tỷ lệ lớn người lớn có da nhạy cảm đã báo cáo bị AD trong tiền sử bệnh của họ trong thời thơ ấu (gợi ý cho các yếu tố chung giữa da nhạy cảm và AD). Da nhạy cảm cũng được báo cáo là thường xuất hiện trong AD mắc phải và tương quan với các dấu hiệu mức độ nghiêm trọng của bệnh.
*** CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG
- Vai trò của các yếu tố môi trường đối với da nhạy cảm chủ yếu được đánh giá theo chủ quan của bệnh nhân, chưa có bằng chứng về sự liên quan của các yếu tố này và cần có các nghiên cứu sâu hơn.
*** VAI TRÒ SINH HOÁ CỦA CÁC PROTEIN CẢM GIÁC
- Sự kích hoạt của da nhạy cảm bởi vật lý, hóa học hoặc hóa lý có thể được giải thích là do sự hoạt hóa hay đúng hơn là sự tăng hoạt hóa của các protein hiện diện trên bề mặt của tế bào sừng và các đầu mút thần kinh trong biểu bì.
- Ở da nhạy cảm, các protein cảm giác như TRPV1 và ASIC3 đã được báo cáo là có biểu hiện quá mức.
*** VAI TRÒ ĐẦU MÚT THẦN KINH Ở BIỂU BÌ
- Do da nhạy cảm chủ yếu có nhiều triệu chứng cảm giác khác nhau, nên có khả năng rối loạn chức năng thần kinh trên da là một trong những cơ chế bệnh lý của da nhạy cảm.
*** VAI TRÒ CỦA HỆ MẠCH
- Thử nghiệm độ giãn mạch của da có thể là một cách tiếp cận khách quan để kiểm tra da nhạy cảm. Tăng phản ứng mạch máu với methyl nicotinate đã được báo cáo ở những người có da nhạy cảm so với những người bình thường.
*** VAI TRÒ STRESS
- Stress đóng một vai trò quan trọng đối với làn da, có bằng chứng rõ ràng rằng triệu chứng ngứa có thể được kích hoạt chỉ với những cảm xúc tiêu cực như sau khi xem một bộ phim kinh dị.
*** HIỆU ỨNG NOCEBO (kỳ vọng tiêu cực)
- Ở da nhạy cảm, có bằng chứng tương đối nhất quán về mức độ ảnh hưởng của hiệu ứng nocebo đến các vấn đề như ngứa và phản ứng của da. Một số nghiên cứu cho thấy rằng các kỳ vọng tiêu cực có thể dẫn đến ngứa nhiều hơn hoặc kích thước mày đay lớn hơn ở những người khỏe mạnh.
KIỂM SOÁT DA NHẠY CẢM
*** TRÁNH CÁC YẾU TỐ KÍCH HOẠT
- Tránh các yếu tố gây kích ứng da nhạy cảm, các chất có khả năng gây kích ứng (axit alpha-hydroxy, propylene glycol, nước hoa có cồn, chất bảo quản, chất hoạt động bề mặt và những chất khác)
- Các yếu tố vật lý cũng thường được bệnh nhân tuyên bố là các yếu tố làm trầm trọng thêm hoặc kích hoạt da nhạy cảm: không khí ẩm ướt, sự thay đổi nhiệt độ, điều hòa không khí, nóng, không khí khô, lạnh, gió và nắng nên được tránh bằng cách điều chỉnh thói quen cuộc sống, nghề nghiệp và lúc nhàn rỗi.
- Các bệnh da nghề nghiệp như viêm da tiếp xúc kích ứng thường liên quan đến da nhạy cảm. Ở những bệnh nhân bị ảnh hưởng, việc phòng ngừa là một vấn đề quan trọng. Một số cách bảo vệ hàng rào bằng cách phòng ngừa đã được công bố, bao gồm bảo vệ da bằng cách đeo găng tay, sử dụng kem bảo vệ và dưỡng ẩm thường xuyên cho da. Điều này có thể ngăn chặn sự phát triển của da nhạy cảm.
*** CHẤT LÀM MỀM/ DƯỠNG ẨM
- Có báo cáo rằng chất làm mềm có thể làm giảm ngứa đáng kể ngay cả sau lần sử dụng đầu tiên, phục hồi chức năng hàng rào da và được coi là một cách tiếp cận đối với làn da nhạy cảm trong bệnh chàm.
- Sữa tắm và lotion có lipid tương tự của da được sử dụng kết hợp và được báo cáo là có khả năng phục hồi chức năng hàng rào bảo vệ da, tăng độ ẩm cho da và trở thành một lựa chọn dưỡng ẩm da hiệu quả cho bệnh nhân da khô dị ứng cũng liên quan đến da nhạy cảm.
*** CHỐNG NẮNG
- Tia cực tím (UVR) gây ra nhiều tác động có hại trên da, có thể làm tăng các triệu chứng của da nhạy cảm khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Ví dụ, UVR làm tăng giải phóng các neuropeptide từ các đầu dây thần kinh như chất P và peptit liên quan đến gen calcitonin. Cả hai đều được biết là gây giãn mạch, ngứa hoặc cảm giác đau rát và viêm thần kinh.
- Những đối tượng có làn da nhạy cảm nên hạn chế tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, tìm bóng râm khi ra ngoài, mặc quần áo chống nắng và đội mũ phù hợp như mũ rộng vành và thoa kem chống nắng. Bệnh nhân có làn da nhạy cảm nên thoa kem chống nắng có chỉ số chống nắng ít nhất là 30, loại kem chống nắng này cũng cung cấp khả năng chống nắng phổ rộng bao gồm tia UVA, vì những sản phẩm này giúp bảo vệ tốt hơn khỏi tác hại của ánh nắng mặt trời. Tuy nhiên, cần nhớ rằng kem chống nắng cũng có thể là tác nhân gây ra da nhạy cảm.
*** ỨC CHẾ VIÊM THẦN KINH
- Các tác nhân chính gây ra chứng viêm thần kinh ở da nhạy cảm là rất nhiều. Các chất gây ngứa này nhắm mục tiêu vào các dây thần kinh bì và biểu bì, các dây thần kinh này có thể thay đổi hình thái các đầu tận với sự tăng động và viêm thần kinh sau đó.
- Liệu pháp laser / ánh sáng cường độ thấp và thành phần chống viêm thực vật đã cho thấy những tác dụng hữu ích trên da nhạy cảm.
*** HIỆU ỨNG PLACEBO (kỳ vọng tích cực)
- Mặc dù không có nghiên cứu trực tiếp tập trung vào vai trò của tác dụng giả dược đối với da nhạy cảm, nhưng có bằng chứng gián tiếp từ nghiên cứu về tác dụng của giả dược đối với chứng ngứa.
*** TIẾP CẬN TOÀN DIỆN
- Cơ chế bệnh sinh của da nhạy cảm chưa được hiểu rõ ràng và hầu hết có lẽ là do đa yếu tố, nên không có "tiêu chuẩn vàng" về điều trị cho da nhạy cảm.
- Bệnh nhân có làn da nhạy cảm cần một phương pháp tiếp cận được cá nhân hóa, có tính đến các yếu tố y sinh, thần kinh và tâm lý xã hội khác nhau. Tránh các yếu tố làm trầm trọng thêm, phục hồi hàng rào bảo vệ da bị tổn thương, bảo vệ khỏi ánh sáng và các yếu tố chống viêm cũng như các yếu tố tâm lý xã hội có thể gây ra cần được cân nhắc. Nhiều bệnh nhân cũng có lợi ích từ việc được hỗ trợ tâm lý, giúp họ đối phó với các vấn đề về da nhạy cảm.

Sunday, 19 September 2021

Tiêm Botox điều trị nếp nhăn trán- Botulinum toxin for Asian - Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

Link tải file pdf: https://drive.google.com/file/d/16iDyK-x8BqJ4Y4XJKPVvzXThdAjqK_Z1/view?usp=sharing

Tiêm Hyaluronic Acid vùng cằm - Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

 


Link tải file pdf: https://drive.google.com/file/d/1sYsPvV87QxKjT3V55C86SE4SPBVhSEmh/view?usp=sharing

VIÊM DA DỊ ỨNG (ATOPIC DERMATITIS) - Tác giả: Robert A Schwartz - Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

 


Link tải file pdf: https://drive.google.com/file/d/1r5nzh9BLRLVTCuTuaPEn7KPqWBWQ1CaA/view?usp=sharing

Hướng dẫn sử dụng laser và ánh sáng xung mạnh trong điều trị bệnh lý mạch máu - Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

 


Link tải file pdf: https://drive.google.com/file/d/1y556a6OxdgrCuFNlredjxKvxF-ckyh8F/view?usp=sharing

Laser và ánh sáng trong trẻ hoá da - Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ


Link tải file pdf: https://drive.google.com/file/d/1sahGLombQolTp01nupWo6gnId1fbKrl9/view?usp=sharing

BỚT RƯỢU VANG (PORT-WINE STAIN) - Bs. Trương Tấn Minh Vũ





(Trích " Hướng dẫn điều trị bệnh lý mạch máu da bằng laser"

Bớt rượu vang (PWS) là tình trạng dị dạng mao mạch bẩm sinh phổ biến, xuất hiện trên khoảng 0,3–0,5% trẻ mới sinh. Giai đoạn phì đại có thể bắt đầu vào đầu những năm 30 tuổi và phì đại ở hầu hết bệnh nhân trên 50 tuổi.



Phương pháp điều trị chính PWS là laser ánh sáng vàng. Điều trị khỏi hoàn toàn ít gặp, gần 20% các tổn thương kháng lại các lần điều trị laser tiếp theo (phản ứng trơ được thấy rõ sau 7–10 lần điều trị).
Bất kỳ PWS nào cũng nên được điều trị khi chuyển sang màu sẫm và dày hơn theo tuổi. Có sự giảm rõ rệt về PWS ở những trẻ bắt đầu điều trị dưới 1 tuổi, nhằm ngăn chặn sự tiến triển và do đó tăng khả năng khỏi hoàn toàn. Trẻ nhỏ hơn có thể bị dị dạng mạch máu nhỏ hơn và nông hơn, dễ điều trị hơn. Tuổi bắt đầu điều trị sớm có thể tăng đáp ứng với điều trị và giảm tỷ lệ tái phát về dài hạn.
Hiệu quả của phương pháp điều trị bằng laser phụ thuộc vào nhiều thông số khác:
- Màu sắc thương tổn: PWS hồng, đặc biệt ở trẻ em, khó làm nhạt màu hơn PWS đỏ; PWS có màu tím đậm và nốt sần cần bước sóng và xung dài hơn (laser alexandrite 755 nm, laser diode 800–900 nm và laser 1064 nm Nd: YAG). Dị dạng mạch máu có thể có thành phần sâu không thể tiếp cận được với laser bước sóng ngắn như 585-595nm, và chỉ có thể bằng laser bước sóng dài hơn như Nd: YAG.
- PWS kích thước nhỏ (<20 cm2) dễ điều trị sạch hơn những tổn thương lớn, không phụ thuộc tuổi tác.
- Vị trí của PWS: tổn thương ở giữa mặt và những tổn thương ở vùng phân bố V2 ít đáp ứng với điều trị bằng laser hơn là PWS nằm ở những nơi khác trên mặt; PWS ở các đầu xa chi khó điều trị hơn các tổn thương ở các đầu gần chi; PWS trên vùng đầu và cổ đáp ứng điều trị thuận lợi hơn các tổn thương ở những nơi khác trên cơ thể.
Sau khi làm sạch tối đa tổn thương ban đầu, cần một khoảng thời nghỉ ngơi cho đến khi các mạch máu còn sót căng trở lại. Điều trị duy trì có thể được yêu cầu trong suốt cuộc đời nếu không thể xoá sạch thương tổn hoàn toàn. Khoảng 25% các tổn thương khỏi hoàn toàn sau nhiều lần điều trị, có thể đạt được mức 50% sau nhiều lần điều trị.
Một số người có thể chịu đựng được quá trình điều trị mà không gặp khó chịu, có thể dùng thuốc gây tê tại chỗ nhưng không được chỉ định cho trẻ em dưới 6 tháng tuổi. Đa số trẻ trên 1,5 tuổi hoặc trẻ có tổn thương lớn hơn sẽ cần gây mê toàn thân khi thực hiện.
*** Cũng giống như bớt Ota, bớt rượu vang nhìn không đẹp nên mình sẽ điều trị MIỄN PHÍ HOÀN TOÀN các trường hợp bớt rượu vang nhẹ trên 12 tuổi ở Khánh Hoà (trẻ nhỏ quá có thể cần phải gây mê và các trường hợp nặng hơn cần phối hợp nhiều loại laser để điều trị, các trường hợp này có thể điều trị ở BV Nhi Đồng 1, BV ĐH Y dược, TT U máu của ĐHYD)***

Vai trò của dược mỹ phẩm trong việc kiểm soát mụn trứng cá - Tác giả: Sarah Boxley - Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

 


Link tải file pdf: https://drive.google.com/file/d/1VQZ5dzYk8N9ExUqiIU4lsawFq2KrXMlO/view?usp=sharing

HƯỚNG DẪN CHĂM SÓC TÓC - Tổng hợp: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

***Tóc và da đầu nhờn
Da đầu và tóc dầu cần gội đầu hàng ngày với thành phần chính là chất hoạt động bề mặt anion. Cần gội đầu lại với dầu gội. Nếu tóc ngắn và còn nguyên thì không cần dưỡng. Nếu tóc đã qua xử lý hóa chất hoặc dài, có thể dùng dầu xả nhẹ mà không chạm vào da đầu. Không cần các sản phẩm ủ tóc nếu không tóc sẽ bị xỉn màu.
***Tóc khô nguyên thuỷ
Gội đầu hàng ngày hoặc cách ngày. Dầu gội có chất hoạt động bề mặt anion kết hợp với chất hoạt động bề mặt thứ cấp và polyme cation được chỉ định để tránh làm khô xơ quá mức. Có thể gội lại nếu cần. Dầu xả có silicon phải được sử dụng sau khi gội đầu và xả sạch hoàn toàn. Sản phẩm ủ tóc có thể được sử dụng cho tóc dài và trung bình.
***Tóc bình thường
Cần loại dầu gội có chất hoạt động bề mặt anion kết hợp với chất hoạt động bề mặt thứ cấp và polyme cation để tránh làm khô xơ quá mức. Có thể gội lại nếu cần. Tóc bình thường có thể được gội hàng ngày trong thời tiết ấm và ẩm, nhưng ít thường xuyên hơn trong thời tiết lạnh và khô. Tóc từ trung bình đến dài sẽ cần loại dầu xả có silicon và dầu để sử dụng sau mỗi lần gội đầu và một loại dầu dưỡng sâu ít nhất một lần một tuần. Có thể sử dụng sản phẩm ủ tóc nếu tóc dài và xoăn hoặc gợn sóng. Trong trường hợp tóc đã được xử lý bằng hóa chất, có thể thay thế bằng dầu gội nhẹ hơn có chứa chất hoạt động bề mặt thứ cấp làm thành phần chính (nếu dầu gội có chứa lauryl / laureth natri sulfat, chất này xuất hiện cuối cùng trên nhãn, sau tất cả các chất hoạt động bề mặt khác) và polyme cation. Tóc xoăn dài bình thường có thể phải tách ra khi còn ướt. Trong trường hợp này, chải đầu có thể được thực hiện trong quá trình xả. Bắt đầu với phần ngọn tóc và đến chân tóc. Xả sạch kỹ nếu không sản phẩm sẽ đọng lại và đóng vảy gây xỉn màu. Dầu gội làm sạch sâu phải được sử dụng cẩn thận ít nhất mỗi tháng một lần, sau đó là dưỡng ẩm sâu.
***Da đầu nhờn và tóc khô
Đây là một vấn đề rất phổ biến đối với người da type III, người gốc Tây Ban Nha và châu Á. Da đầu cần được làm sạch thường xuyên và kỹ, nhưng các sợi tóc cần được dưỡng và bôi trơn. Các ngọn tóc thường bị khô, và hiện tượng tóc chẻ ngọn thường thấy ở tóc đã qua xử lý hóa chất hoặc do chải mạnh và chải chuốt quá kỹ. Chất xả tạo màng, hợp chất amoni và silicon là cần thiết để giảm thiểu ma sát giữa các sợi tóc và dễ chải. Nếu cần dầu gội có độ tẩy rửa cao, tác dụng mạnh của dầu gội sẽ được trung hòa bởi các thành phần dưỡng ẩm của dầu xả. Trong môi trường ẩm ướt, hiệu ứng xoăn tóc do độ ẩm gây ra có thể được trung hòa bằng cách thoa thường xuyên hơn các thành phần dưỡng chống xoăn dưới dạng dầu xả/ bôi sau khi gội đầu hoặc như một sản phẩm ủ tóc. Cách cuối cùng có thể được áp dụng cho tóc khô hoặc ướt. Nếu bôi hàng ngày mà không gội đầu, có thể dẫn đến hở lớp sừng do lắng đọng các phân tử (cặn) khó hòa tan. Cần dầu gội làm sạch sâu da đầu ít nhất mỗi tháng một lần hoặc bất cứ khi nào tóc bắt đầu cảm thấy nhờn và xỉn màu, để loại bỏ các chất cặn bã dư thừa. Có thể cần dùng dầu xả sâu và dưỡng chất protein mỗi tuần một lần.
***Tóc tẩy màu
Tẩy là quá trình gây tổn hại nhiều nhất cho tóc. Gội đầu nên nhẹ nhàng. Chất bôi trơn và tăng độ bền đều rất cần thiết. Dầu gội đầu nhẹ với nồng độ thấp các chất hoạt động bề mặt anion và hàm lượng chất điều hoà cao, như silicon, quats và dầu, là cần thiết sau mỗi lần gội đầu. Tần suất gội đầu sẽ phụ thuộc vào mức độ nhờn của da đầu, nhưng không dùng các loại dầu gội có tác dụng mạnh. Đối với da đầu nhờn, có thể cần làm sạch hàng ngày, nếu môi trường ẩm ướt. Môi trường khô ít cần gội hơn. Thân tóc thường mỏng hơn ở ngọn, thể hiện sự mất protein. Không thể thay thế vật chất giàu protein, nhưng việc điều trị bằng các aminoacid đã thủy phân có thể tạm thời làm tăng độ bền của sợi tóc và cải thiện khả năng chống đứt gãy. Bôi trơn là rất quan trọng trong mỗi bước làm sạch và chải tóc. Nếu sử dụng máy sấy tóc, cần phải bảo vệ sợi tóc bằng silicon hàm lượng cao giúp phục hồi lớp sừng bị đứt gãy và phân tán nhiệt qua chiều dài sợi tóc, giảm thiểu thiệt hại do nhiệt. Chải bằng ngón tay với serum bôi trơn silicon, có hoặc không dùng nhiệt, có thể tránh được gãy tóc. Các sản phẩm có độ pH thấp sẽ trung hòa các điện tích âm và giúp tóc suông, cũng như đỡ rối. Dầu gội trẻ em quá kiềm và không thích hợp cho tóc đã tẩy màu, mặc dù chúng có chứa chất hoạt động bề mặt nhẹ. Tất cả các loại dầu gội 2 trong 1 phải được sử dụng cẩn thận, vì chúng có thể không cung cấp độ ẩm và bôi trơn thích hợp. Tóc tẩy màu cần xả sâu một hoặc hai lần một tuần.

KIỂM SOÁT TÁC DỤNG PHỤ CỦA VITAMIN A VÀ RETINOIDS - Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ




https://drive.google.com/file/d/1AnAW0BMRVOfQUSQp30K8nHgE31uGV540/view?usp=sharing

CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA RETINOIDS BÔI TẠI CHỖ - Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

 



https://drive.google.com/file/d/1oXrARl6ubTsfm3rg3KaxG4-xeElUHnx1/view?usp=sharing

Phần viết về Hydroquinone của tác giả Obagi - Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ



Một số nội dung có thể gây tranh cãi 😁
HYDROQUINONE
HQ là một chất làm sáng da có nguồn gốc từ phenol. Nó thường được sử dụng trong da liễu để điều trị các tình trạng tăng sắc tố da, bao gồm nám da, tàn nhang, đốm nâu và tăng sắc tố sau viêm (PIH). HQ hoạt động bằng cách ức chế enzym tyrosinase, yếu tố cần thiết để chuyển đổi dihydroxyphenylalanin (DOPA) thành melanin. Hoạt động của tyrosinase có thể giảm tới 90% khi sử dụng HQ. HQ cũng có thể làm thoái hoá melanosomes và gây độc có chọn lọc cho tế bào hắc tố. Nó đạt được điều này bằng cách thay đổi cấu trúc các bào quan của tế bào hắc tố, do đó làm giảm sản xuất các tế bào hắc tố và tăng sự phân hủy của chúng. HQ chỉ ngăn chặn sự hình thành các hắc tố mới (từ các tế bào hắc tố nằm trong hoặc gần lớp tế bào đáy) nên da không thể sáng lên ngay lập tức.
HQ có sẵn ở dạng lotion, kem, chất lỏng hoặc gel. Các dạng lotion và kem được ưu thích hơn vì dạng lỏng và gel dẫn tới việc bôi không đều. Điều quan trọng cần lưu ý là sau khi HQ đã bị oxy hóa và chuyển sang màu nâu, nó có rất ít hoặc không có hoạt tính.
HQ được bán không kê đơn với nồng độ 2% và trong thuốc bôi kê đơn với nồng độ từ 3% đến 5%. Nồng độ cao hơn (6% đến 8%) không được chứng minh là có hiệu quả hơn và làm tăng nguy cơ gây ra phản ứng đặc trưng trong hoặc sau khi ngừng điều trị (tương tự như ochronosis, tăng sắc tố da màu xanh đen). Đôi khi, các hãng dược sẽ tổng hợp HQ bôi với nồng độ cao tới 20% để điều trị cụ thể các tình trạng như bạch biến. Tuy nhiên, việc sử dụng HQ ở cường độ mạnh hơn 4% thường không được chấp nhận bởi vì chúng có liên quan đến việc tăng nguy cơ sạm da nghịch lý (exogenous ochronosis, tăng sắc tố da màu xanh đen), có thể là vĩnh viễn. Exogenous ochronosis biểu hiện dưới dạng các mảng da màu xanh đen và phổ biến hơn ở những người da đen của một số bộ lạc nguyên thuỷ nhất định. Tuy nhiên, nó có thể xảy ra ở bất kỳ màu hoặc loại da nào.
Việc sử dụng HQ được khuyến cáo giới hạn trong khoảng thời gian 4 hoặc 5 tháng. Sử dụng kéo dài ngay cả cường độ thấp hơn HQ có thể gây độc cho tế bào và có liên quan đến tăng nguy cơ mắc exogenous ochronosis. Ở những bệnh nhân có biểu hiện exogenous ochronosis, có thể điều trị hiệu quả bằng cách cho bệnh nhân sử dụng HQ để làm trắng và phối hợp, cùng với peel lớp bì nhú kết hợp điều trị laser Nd: YAG.
Các tác dụng phụ hiếm gặp khác liên quan đến việc sử dụng HQ là châm chích, bỏng rát, kích ứng, phản ứng giống phát ban và viêm da tiếp xúc dị ứng. Sự hấp thu toàn thân hoặc độc tính do sử dụng HQ tại chỗ kéo dài (ở nồng độ 2% đến 4%) chưa được báo cáo. Ngay cả khi vô tình ăn phải, HQ hiếm khi tạo ra độc tính toàn thân. Điều này trái ngược với các chất làm ức chế sắc tố được sử dụng trong quá khứ, như các hợp chất thuỷ ngân, gây tổn thương thận và mono-benzone gây phá hủy tế bào hắc tố vĩnh viễn. Việc tăng nguy cơ ung thư da chưa được ghi nhận khi sử dụng HQ. Ngoài ra, HQ không trực tiếp gây ra tăng độ nhạy sáng. Tuy nhiên, với kết quả làm lượng melanin giảm xuống sẽ làm da hấp thụ nhiều tia cực tím (UV) hơn. Điều này dẫn đến tổn thương da do ánh nắng mặt trời mãn tính. Các loại kem chống nắng phổ rộng, nhất là những loại có chứa chất chống nắng vật lý, được khuyến khích sử dụng trong khi sử dụng HQ.
Để có kết quả tối ưu, với mỗi lần thoa, bệnh nhân nên bôi khoảng 1,5 gam HQ lên lớp biểu bì (tương tự như lượng trong 1 inch kem đánh răng). Lượng này cần được mát xa hoàn toàn vào da. Sau khi sử dụng HQ, độ pH của da sẽ chuyển sang trung tính, do đó tạo điều kiện cho quá trình oxy hóa của sản phẩm. Do hiện tượng này, hoạt động của HQ tương đối ngắn, và do đó nó nên được sử dụng hai lần mỗi ngày. Khi màu da trở nên đồng đều rõ ràng, tần suất thoa có thể giảm dần. Việc bôi sản phẩm không nên dừng đột ngột.
Mặc dù HQ là một chất làm giảm sắc tố mạnh, hiệu quả của nó có thể được nâng cao hơn nữa khi nó được sử dụng kết hợp với AHA, tretinoin hoặc cả hai. Sự hiện diện của AHA trong các sản phẩm có chứa HQ cũng ngăn chặn quá trình oxy hóa của HQ, do đó duy trì tác dụng của nó. Vì HQ tương đối không ổn định, khi kết hợp nó với tretinoin, hai sản phẩm nên được kết hợp mới ngay trước khi bôi ngoài da. Sự thâm nhập của HQ cũng có thể được tăng lên bằng cách kết hợp nó với các thành phần chính khác (ví dụ: axit azelaic) và bằng cách điều chỉnh độ pH của da trước khi điều trị. Cần lưu ý, quá trình tăng cường độ xâm nhập nói trên hoàn toàn khác với trạng thái tăng tính thấm. Sự thâm nhập của các thành phần hoạt tính của sản phẩm có thể được tăng cường bằng cách sử dụng nó cùng với một chất bôi ngoài da khác (như khi chúng ta đang điều trị bệnh). Ngược lại, sự gia tăng tính thấm của biểu bì là một rối loạn đặc trưng bởi chức năng hàng rào biểu bì bị tổn thương, nó dẫn đến khô da, nhạy cảm, kích ứng và giảm khả năng lành thương. Hơn nữa, khi sử dụng HQ, biểu hiện của da nhờn phải được lưu ý và giảm bớt. Da nhờn cần được rửa đúng cách và sử dụng thêm các thành phần bôi tại chỗ hoặc tác dụng toàn thân. Cả hai đều hỗ trợ giảm bã nhờn và cho phép tăng sự thâm nhập của HQ.
Việc sử dụng kết hợp HQ và tretinoin trong ít nhất 6 tuần là điều cần thiết trước khi thực hiện một quy trình như peel da sâu có kiểm soát (20% hoặc 26% đến 28% axit trichloroacetic [TCA]). Việc điều hoà trước này làm giảm khả năng sản xuất melanin của da và do đó làm giảm nguy cơ bị PIH. Sự kết hợp HQ và tretinoin cân bằng độ ẩm cho da, mang lại kết quả đồng đều hơn vì nước là chất mang các chất lột tẩy.
HQ 4% khi được sử dụng một mình, có thể giảm hầu hết các vấn đề về tăng sắc tố do sự gia tăng hoạt động của các tế bào hắc tố và sự sản sinh melanin quá mức của chúng. Trong trường hợp này, việc ức chế quá trình sản xuất melanin được gọi là làm trắng. Tuy nhiên, khi HQ được trộn với tretinoin hoặc AHAs, tác dụng làm trắng trở nên ít quan trọng hơn, và một tác dụng khác sẽ được ưu tiên. Thuật ngữ phối hợp dùng để chỉ quá trình này, tạo nên sự phân bố melanin đồng đều hơn cho các tế bào sừng xung quanh.
Để có kết quả nhanh hơn, hiệu quả hơn, nên kết hợp cả hai bước. Bước làm trắng nên được thực hiện trước, tiếp theo là phối hợp. Khi một sản phẩm có chứa HQ được dự định kết hợp với một sản phẩm khác có chứa tretinoin (cho mục đích phối hợp), sản phẩm HQ phải có độ pH có tính axit cao hơn để cho phép trộn với tretinoin một cách hiệu quả. Điều này trái ngược với các sản phẩm chỉ chứa HQ, loại cơ bản hơn dành cho mục đích làm trắng. Do tác dụng làm triệt tiêu hiệu quả làm trắng và phối hợp, các sản phẩm HQ bôi ngoài da có chứa steroid cũng nên tránh.

ĐỘ pH CỦA DA NGƯỜI - Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ

 


https://drive.google.com/file/d/1uJqfH6DWUAhrvnKoxKlh692YlOqQ60Qa/view?usp=sharing


6 LỜI KHUYÊN TRONG ĐIỀU TRỊ NÁM - Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ




(Trích trong cuốn "Principles and Choice of Laser Treatment in Dermatology")
- Thứ nhất, khi một bệnh nhân nám đến khám lần đầu, nên kiểm tra xem trước đó đã từng điều trị gì chưa. Hỏi bệnh nhân các phương pháp điều trị trước đó có hiệu quả không hoặc có tác dụng phụ nào không. Nếu không có tác dụng phụ và có hiệu quả, và chỉ có vấn đề tái phát thì có thể lặp lại phương pháp tương tự. Nhưng nếu có tác dụng phụ, cần cân nhắc thay đổi phương pháp điều trị. Ví dụ, nếu bệnh nhân đã từng được điều trị nám bằng laser toning và có bị mất sắc tố dạng đốm thì không nên lặp lại điều trị nám bằng laser toning và có thể dự đoán được trường hợp nám này sẽ không dễ dàng cải thiện bằng phương pháp điều trị thông thường.
- Thứ hai, không nên nói với bệnh nhân rằng nám có thể chữa khỏi 100%. Cho dù áp dụng tất cả các phương pháp điều trị nám, bao gồm cả liệu pháp hành vi, thuốc uống và bôi, laser, nhưng nám da vẫn không thể được điều trị khỏi 100%. Ngoài ra, việc điều trị lặp lại là bắt buộc. Có thể nên thực hiện laser toning 20–30 lần thay vì 10 lần khi điều trị nám ở lớp bì.
- Thứ ba, không nên tập trung vào việc làm trắng sáng toàn bộ khuôn mặt mà chỉ nên cải thiện vùng tối màu hơn để phù hợp với tông màu tổng thể của khuôn mặt. Điều này áp dụng cho việc điều trị tất cả các vấn đề sắc tố da, bao gồm nám. Không dễ để làm trắng sáng toàn bộ khuôn mặt, nhưng sẽ dễ hơn nếu chỉ cải thiện các đốm nâu hoặc nám, và cũng có ít tác dụng phụ hơn.
- Thứ tư, cần phối hợp các phương pháp điều trị. Có nhiều nguyên nhân và cơ chế gây ra nám, không có một phương pháp đơn trị liệu nào cho nám. Tuy nhiên, cần đánh giá cơ chế tác động của mỗi phương pháp điều trị trong phác đồ phối hợp để không bị chồng chéo.
- Thứ năm, không phải ai có đáp ứng giống nhau đối với mỗi lần điều trị. Một số bệnh nhân có thể xuất hiện các tác dụng phụ. Vì vậy, cần theo dõi bệnh nhân cẩn thận trong mỗi lần thực hiện điều trị để đánh giá các dấu hiệu cải thiện cũng như tác dụng phụ.
- Thứ sáu, nám tái phát. Vì vậy, điều trị duy trì cần được thực hiện trước. Ngăn ngừa nám tái phát thông qua liệu pháp hành vi là cần thiết, bệnh nhân cần được tư vấn đầy đủ các vấn đề liên quan đến cải thiện môi trường da và điều trị lặp lại bằng laser toning.

CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ THAY THẾ CHO BỆNH ZONA - Tác giả: Kumar Shital - Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ



Zona (Shingles) là một bệnh do nhiễm virus, bệnh nhân tìm đến bác sĩ khi bị bùng phát zona và được kê đơn thuốc để làm giảm nhẹ triệu chứng và ngăn ngừa nhiễm trùng thứ phát.
Phát ban bệnh zona gây đau nhiều, thường kéo dài từ 2 đến 4 tuần. Trong suốt thời gian này, bệnh nhân có thể cảm thấy đau, rát, ngứa và các triệu chứng khác.
Để vượt qua giai đoạn này, bệnh nhân có thể cần một số phương pháp điều trị thay thế ngoài y học phương Tây truyền thống.
Một số nghiên cứu cho thấy rằng các phương pháp điều trị khác nhau, từ châm cứu đến thực phẩm bổ sung, có thể giúp giảm đau. Nghiên cứu chưa hoàn thành, nhưng một số phương pháp điều trị này cho thấy nhiều hứa hẹn.
Phương pháp điều trị theo phương Tây và các phương pháp thay thế có thể được kết hợp tốt với nhau, nên trao đổi với bác sĩ điều trị nếu muốn thử một phương pháp khác.
KÍCH THÍCH THẦN KINH BẰNG ĐIỆN QUA DA (Transcutaneous electrical nerve stimulation, TENS)
Liệu pháp này sử dụng các xung điện cực nhỏ để giảm đau. Thiết bị TENS có kích thước bằng một chiếc điện thoại và đi kèm với các miếng dán nhỏ gọi là điện cực. Đặt chúng lên vùng đau và bật và tắt thiết bị khi cơn đau đến và đi. Có thể mua thiết bị này tại cửa hàng vật tư y tế hoặc online.
Các bác sĩ không rõ TENS hoạt động như thế nào, nhưng đối với một số người, nó làm dịu cơn đau kéo dài sau khi bị zona.
Y HỌC CỔ TRUYỀN
Những phương pháp điều trị này tập trung vào “khí”, được xem là năng lượng tự nhiên của cơ thể. Theo những cách tiếp cận này, bệnh tật phát sinh khi khí không còn nữa và cần khôi phục lại sự cân bằng trong cơ thể. Một số kỹ thuật này bao gồm:
*** CỨU BẰNG NGÃI
Đây là một loại nhiệt trị liệu thường được thực hiện cùng với châm cứu. Nó sử dụng ngải cứu, thường được làm từ lá khô của một loại thảo mộc Trung Quốc.
Trong quá trình điều trị, ngải cứu được đốt gần da của bệnh nhân. Theo y học cổ truyền, điều này mang lại sự ấm áp, kích thích khí và loại bỏ các độc tố gây bệnh. Một số nghiên cứu cho thấy điều này có thể giúp giảm đau do zona.
Bệnh nhân có thể đến gặp bác sĩ y học cổ truyền để tìm hiểu thêm.
*** GIÁC HƠI
Liệu pháp này được cho là để thúc đẩy lưu thông của khí và máu trong cơ thể. Nó được cho là sẽ mở ra các lỗ chân lông để thải độc tố ra ngoài.
Trong một phiên trị liệu, các chiếc cốc làm từ thủy tinh, tre hoặc sừng được làm nóng không khí bên trong và đặt lên cơ thể bệnh nhân để kéo phần da lên cốc. Sau vài phút, cốc được lấy ra, để lại những vòng tròn đỏ nổi lên trên da.
Một số nghiên cứu cho thấy giác hơi, đặc biệt là cùng với các phương pháp điều trị khác như châm cứu và liệu pháp ánh sáng, có thể làm dịu cơn đau do zona.
***CHÂM CỨU
Phương pháp cổ xưa này sử dụng những cây kim mảnh để cân bằng khí của cơ thể. Chúng giúp giảm bớt hoặc chấm dứt cơn đau do bất kỳ nguyên nhân nào và có thể giúp chữa bệnh zona.
CÁC SẢN PHẨM BÔI TRÊN DA KHÁC
Có một số hiệu quả với những phương pháp này. Bôi sản phẩm trực tiếp lên tổn thương và có thể làm thuyên giảm nhanh chóng. Luôn trao đổi với bác sĩ trước khi sử dụng các sản phẩm sau:
*** DIMETHYL SULFOXIDE (DMSO):
DMSO là một chất lỏng trong suốt còn sót lại sau quá trình sản xuất giấy. Khi bôi thuốc lên da cùng với idoxuridine, một loại thuốc kháng virus, nó có thể làm giảm sưng tấy và số lượng mụn nước.
*** CHẤT DIỆP LỤC
Chất này tạo ra màu xanh cho cây và lá. Khi thoa thuốc lên tổn thương dưới dạng kem hoặc dung dịch nước muối vài lần một ngày, có thể cải thiện các triệu chứng.
THỰC PHẨM BỔ SUNG
Chỉ cần tìm “thực phẩm bổ sung chữa bệnh zona” trên mạng sẽ thấy rất nhiều các loại thảo mộc, thuốc và dầu. Đối với hầu hết các loại trên, không có nghiên cứu nào để chứng minh hiệu quả, nhưng trong một số trường hợp, các nghiên cứu ban đầu cho thấy một số hy vọng.
*** PAPAIN
Đây là một loại protein có trong đu đủ. Nó được sử dụng để làm cho thịt mềm và thậm chí để làm sạch kính áp tròng. Nó cũng có thể mang lại sự giảm nhẹ cho những người bị zona, có thể được bán dưới dạng viên nang.
*** MẬT ONG MANUKA và MẬT ONG CỎ BA LÁ
Mật ong có rất nhiều công dụng. Điều trị phát ban bệnh zona có thể là một trong số đó.
Các nghiên cứu chưa được thực hiện trên người, nhưng trong phòng thí nghiệm, có vẻ như hai loại mật ong này có thể giúp chống lại virus varicella zoster gây ra bệnh zona. Các nhà khoa học cho rằng việc thoa trực tiếp lên da có thể có lợi, nhưng vẫn chưa rõ cách sử dụng tốt nhất hoặc tác dụng thực sự của nó.

CHIẾN LƯỢC ĐIỀU TRỊ NÁM BẰNG PHƯƠNG PHÁP KẾT HỢP - Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ





(Trích “Principles and Choice of Laser Treatment in Dermatology- With Special Reference to the Asian Population”)
- Có nhiều phương pháp điều trị nám khác nhau, nhưng không có phương pháp điều trị đơn độc nào cho hiệu quả tốt, do đó, một số nghiên cứu cho rằng điều trị kết hợp là cách tốt nhất để trong điều trị nám.
- Nhưng nếu kết hợp tất cả các phương pháp có hiệu quả có thể gây ra tác dụng phụ do các quá trình chồng chéo của cùng một cơ chế. Ví dụ, laser 755nm xung dài và peel da hoá chất đều làm tổn thương lớp biểu bì và làm tăng sự luân chuyển của biểu bì, do đó, dễ xảy ra tác dụng phụ hơn khi được dùng kết hợp. Vì vậy, sẽ lý tưởng hơn nếu phân loại các phương pháp điều trị theo cơ chế tác động và kết hợp các phương pháp điều trị thích hợp mà không bị chồng chéo.
- Chiến lược điều trị nám có thể được chia thành ba loại, dựa theo quá trình sản xuất melanin.
• Thứ nhất, giảm hoạt động của các tế bào hắc tố.
• Thứ hai, ức chế sự hình thành melanosome.
• Thứ ba, thúc đẩy quá trình thoái hóa melanosome.
- Hầu hết các loại laser không ức chế sản xuất melanin như hydroquinone, nhưng chúng thúc đẩy quá trình loại bỏ melanin ở biểu bì tương tự như peel da hoá chất. Laser sử dụng trong điều trị sắc tố chỉ tác động chọn lọc lên các sắc tố gây nám da và không làm tổn thương mô xung quanh. Ngược lại, peel da hóa chất không đặc hiệu, không chỉ làm tổn thương các tế bào chứa sắc tố mà còn làm tổn thương các mô xung quanh. Do đó, laser an toàn và hiệu quả hơn peel da bằng hóa chất trong điều trị nám.
KẾT HỢP CÁC PHƯƠNG PHÁP HIỆU QUẢ
- Kết hợp các cơ chế gây nám, nguyên lý hoạt động của laser và các nghiên cứu về hiệu quả điều trị nám, các phương pháp sau đây có hiệu quả trong việc điều trị nám.
1. Thứ nhất, do không biết 100% nguyên nhân gây ra nám nên chúng ta không thể điều trị nám hết 100%. Nếu bệnh nhân đang dùng thuốc tránh thai, chuyển họ sang thuốc tránh thai estrogen liều thấp có thể hữu ích. Ngoài ra, điều trị nguyên nhân như tránh các kích ứng mãn tính (ví dụ: do mỹ phẩm) và chống nắng kỹ là điều quan trọng nhất trong điều trị nám.
2. Thứ hai, sửa chữa vùng da bị tổn thương. Cải thiện lớp biểu bì bằng việc sử dụng chất dưỡng ẩm và phương pháp điện di dưỡng chất. Cải thiện màng đáy bằng peel nông ít gây kích ứng như GA 50% và các phương pháp trẻ hoá da. Cải thiện lớp bì bằng laser không xâm lấn, các phương pháp trẻ hoá da bằng thiết bị (RF, HIFU…) và mesotherapy (HA, PRP, multivitamin…).
3. Thứ ba, giảm hoạt động của các tế bào hắc tố, laser toning được sử dụng để cắt đuôi gai các tế bào hắc tố, thuốc làm trắng da bôi tại chỗ để ngăn chặn sản xuất melanin. Axit tranexamic, axit ascorbic và glabridin là lựa chọn kinh tế mà không có tác dụng phụ.
4. Cuối cùng, các sắc tố đã có sẵn trên da có thể được loại bỏ bằng laser sắc tố. Vì tia laser có thể làm tình trạng nám trở nên trầm trọng hơn, nên chọn loại laser thích hợp, không có tác dụng phụ và năng lượng yếu.

ĐIỀU TRỊ ĐAU SAU ZONA - Tác giả: Carol DerSarkissian - Dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ



Với hầu hết bệnh nhân zona, khi bệnh thoái lui, các triệu chứng của bệnh thường mất đi cùng với các tổn thương ở dọc theo một bên cơ thể hoặc trên mặt. Nhưng ở một số trường hợp, cơn đau vẫn còn kéo dài sau khi da của họ đã sạch tổn thương.
Nó được gọi là đau dây thần kinh sau zona và là một biến chứng của bệnh zona. Bệnh nhân có các cảm giác dữ dội như ngứa ran, bỏng rát và đau không ngừng. Triệu chứng này có thể kéo dài trong 3 tháng hoặc lâu hơn, cơ thể nhạy cảm khi chạm vào và khó mặc quần áo.
Khi gặp tình trạng này, bệnh nhân cần trao đổi với bác sĩ để có biện pháp điều trị giảm nhẹ.
THUỐC UỐNG HỖ TRỢ
*** THUỐC CHỐNG CO GIẬT
Những loại thuốc này được phát triển để kiểm soát cơn động kinh, nhưng chúng cũng có thể giúp giảm đau do đau dây thần kinh sau zona. Ví dụ như:
• Carbamazepine (Carbatrol, Equetro, Epitol, Tegretol)
• Gabapentin (Fanatrex, Neurontin)
• Pregabalin (Lyrica)
*** THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM BA VÒNG
Đã được chứng minh là giúp giảm đau do đau dây thần kinh sau zona, gồm:
• Amitriptyline (Elavil)
• Desipramine (Norpramin)
• Nortriptyline (Pamelor)
*** THUỐC GIẢM ĐAU KÊ ĐƠN
Thuốc không kê đơn có thể là đủ cho các trường hợp nhẹ, nhưng những trường hợp khác có thể cần thuốc giảm đau opioid (gây nghiện) mạnh hơn, như:
• Hydrocodone với acetaminophen (Lorcet, Lortab, Norco, Vicodin)
• Hydrocodone tác dụng kéo dài (Hysingla ER, Zohydro ER,)
• Hydromorphone (Dilaudid, Exalgo)
• Meperidine (Demerol)
• Methadone (Dolophine, Methadose)
• Morphine (Astramorph, Avinza, Kadian, MS-Contin, Oramorph SR)
• Oxycodone (OxyContin, OxyFast, Roxicodone)
• Oxycodone và naloxone (Targiniq ER)
• Oxycodone và acetaminophen (Percocet)
BÔI TẠI CHỖ
Bạn có thể thấy nhẹ nhõm với các phương pháp điều trị trên da. Bạn có thể nói chuyện với bác sĩ của bạn về:
*** KEM
Một số có chứa capsaicin, thành phần trong ớt cayenne mang lại hiệu quả. Ví dụ như Capsin và Zostrix. Có thể mua thuốc này không cần kê đơn nhưng cần trao đổi với bác sĩ nếu bệnh nhân muốn sử dụng.
*** MIẾNG DÁN
Capsaicin cũng có trong Qutenza, loại miếng dán được sử dụng trong một giờ mỗi 3 tháng, cần đến phòng khám bác sĩ để thực hiện.
Lidoderm là một miếng dán có chất gây tê là lidocaine, được dán trực tiếp vào vùng da bị đau.
CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁC ĐỂ GIẢM ĐAU
Hầu hết những bệnh nhân bị đau dây thần kinh sau zona sử dụng thuốc để kiểm soát các triệu chứng của họ. Nhưng cũng có những cách khác để kiểm soát cơn đau, gồm:
*** TENS (kích thích dây thần kinh bằng điện qua da): sử dụng một thiết bị gắn các dòng điện cực nhỏ vào vùng bị đau trên da, giúp ngăn chặn cơn đau.
*** CHƯỜM LẠNH: dùng một túi chứa đầy gel lạnh để làm tê khu vực đau, những vật lạnh hơn làm cho cơn đau dây thần kinh tồi tệ hơn.
*** ĂN MẶC THOẢI MÁI
Mặc quần áo rộng rãi hơn với các loại vải như cotton và lụa.
PHÒNG NGỪA
FDA đã chấp thuận một loại vaccine chủng ngừa bệnh zona, được gọi là Zostavax. Vaccine này hiện được khuyến cáo cho tất cả mọi người từ 60 tuổi trở lên. Đối với nhóm tuổi này, nó làm giảm khoảng một nửa nguy cơ mắc bệnh zona. Những người từ 50 đến 59 có thể trao đổi với bác sĩ về vấn đề này đang bị đau liên tục hoặc các vấn đề về da hoặc có hệ thống miễn dịch suy yếu. Ở những người được tiêm vaccin mà vẫn bị bệnh zona, giai đoạn đau giảm đi.
Một số loại thuốc cũng có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh zona và thời gian kéo dài của bệnh zona. Phương pháp điều trị chính là bằng thuốc kháng virus trong giai đoạn đầu của bệnh zona, trong vòng 2 đến 3 ngày kể từ khi các triệu chứng xuất hiện. Thuốc được sử dụng bao gồm:
• Acyclovir (Zovirax)
• Famciclovir (Famvir)
• Valacyclovir (Valtrex)

Bản dịch "Chương 1- Các nguyên lý của laser" trong cuốn "Principles and Choice of Laser Treatment in Dermatology"

 


https://drive.google.com/file/d/1yV3HlAQp7KOQMBkoWdppVltYxP4OLWj8/view?usp=sharing

BAKUCHIOL, hoạt chất tiềm năng thay thế Retinol (tt) - Bs. Trương Tấn Minh Vũ




Bakuchiol là một hoạt chất thay thế cho retinoid bôi tại chỗ, gần đây đã được phổ biến rộng rãi hơn trong các tài liệu. Bakuchiol là một phenol meroterpene tinh khiết được tìm thấy chủ yếu trong hạt của cây Psoralea corylifolia (babchi) ở Ấn Độ, nó cũng được tìm thấy trong các nguồn thực vật khác như Psoralea linearulosa, Pimelea drupaceae, Ulmus, Otholobium pubescens và Piper longum. Hợp chất này đã được chứng minh có hoạt tính chống tăng sinh, chống viêm, chống oxy hóa và hoạt tính chống mụn.
Về mặt cơ chế, bakuchiol dường như nhắm mục tiêu vào một số con đường tế bào tương tự như các mục tiêu của retinoids, bao gồm điều chế các gen thụ thể axit retinoic và tang cường điều chỉnh collagen và các enzym tổng hợp chất nền ngoại bào.
NẾP NHĂN
Cả bakuchiol và retinol đều làm giảm đáng kể nếp nhăn nông bề mặt so với ban đầu. Đáng chú ý, những thay đổi đáng kể so với ban đầu được thấy ở thời điểm tuần 12. Không có sự khác biệt đáng kể giữa bakuchiol và retinol.
SẮC TỐ
Sắc tố được đánh giá qua phân loại lâm sàng và thông qua phân tích khuôn mặt về diện tích bề mặt bị ảnh hưởng và mức độ sắc tố chung. Phân loại lâm sàng cho thấy 59% người tham gia nhóm bakuchiol đã cải thiện tình trạng tăng sắc tố, trong khi 44% người trong nhóm retinol cải thiện tình trạng tăng sắc tố ở tuần thứ 12. Retinol và bakuchiol cải thiện cả mức độ sắc tố và diện tích bề mặt ảnh hưởng ở tuần 12. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa bakuchiol và retinol trong phân tích khuôn mặt hoặc phân loại lâm sàng.
TÁC DỤNG PHỤ
Có sự bong tróc nhiều hơn đáng kể ở nhóm retinol tại tất cả các thời điểm theo dõi. Bakuchiol dường như có xu hướng mẩn đỏ nhiều hơn trên phân loại lâm sàng ở tuần thứ 4 và tăng mức độ mẩn đỏ khi phân tích trên máy tính vào tuần thứ 4. Không có thay đổi đáng kể về mẩn đỏ ở cả hai nhóm ở tuần thứ 8 hoặc 12.
Có nhiều báo cáo hơn về ngứa và rát ở nhóm dùng retinol, nhưng không có ý nghĩa thống kê. Có nhiều báo cáo có ý nghĩa thống kê về cảm giác châm chích ở nhóm dùng retinol.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu chứng minh rằng bakuchiol có thể so sánh với retinol về khả năng cải thiện tổn thương da do ánh sáng và dung nạp tốt hơn retinol.
Đặc biệt, đối với những người tiêu dùng coi trọng các sản phẩm tự nhiên, bakuchiol có sự hấp dẫn hơn do có nguồn gốc từ một số loài thực vật.
Bakuchiol biểu hiện hứa hẹn sẽ là một giải pháp thay thế retinol với ít tác dụng phụ hơn. Cả nghiên cứu này và một nghiên cứu in vivo trước đó đều cho thấy rằng việc sử dụng bakuchiol hai lần mỗi ngày có thể dẫn đến những cải thiện rõ rệt trong một số thông số chống lão hoá. Mặc dù retinol và bakuchiol khác nhau về cấu trúc, bakuchiol đã chứng minh khả năng hoạt động như một chất tương tự chức năng cho retinol. Cụ thể, cả hai hợp chất đều gây ra biểu hiện gen rất giống nhau trên da người. Điều này bao gồm các gen liên quan đến việc tế bào hấp thu retinol nội sinh, kích hoạt retinol trong da và sản xuất các protein nền ngoại bào cung cấp hỗ trợ và tính toàn vẹn của biểu bì.
Mặc dù bakuchiol có thể chia sẻ một số đặc tính chống lão hóa của nó với retinoids, nhưng hợp chất này tạo ra một bộ con đường hóa học riêng của nó cũng có thể góp phần vào tác dụng chống lão hóa của nó. Có lẽ đáng chú ý nhất, bakuchiol ảnh hưởng đến một số quá trình chống oxy hóa. Stress oxy hóa trên các tế bào da, từ cả quá trình trao đổi chất bên trong và các chất độc và tác nhân gây căng thẳng từ môi trường bên ngoài, được biết là góp phần đáng kể vào quá trình lão hóa da. Bakuchiol đã được chứng minh là có tác dụng kích hoạt yếu tố nhân 2 liên quan đến erythroid 2, một yếu tố phiên mã có vai trò quan trọng trong việc tế bào chống lại stess oxy hóa. Các khả năng chống oxy hóa bổ sung bao gồm khả năng quét các gốc oxy tự do và vai trò quan trọng của nó trong việc ngăn chặn quá trình peroxy hóa lipid của ty thể.
Ngoài việc cải thiện độ sâu của nếp nhăn, bakuchiol cũng làm giảm mức độ sắc tố và diện tích bề mặt trong quá trình điều trị 12 tuần. Điều này có thể là do tác dụng chống oxy hóa của bakuchiol, cũng như khả năng phá vỡ sự tổng hợp melanin của nó. Điều thú vị là bakuchiol có thể can thiệp vào hai bước của con đường tổng hợp melanin, ngăn chặn cả hoạt hóa hormone kích thích a-melanocyte và tyrosinase. Các tác dụng ức chế của Bakuchiol đối với việc sản xuất melanin ở da là nguyên nhân khiến hợp chất này được sử dụng trong cả mỹ phẩm trị chống lão hoá và chống tăng sắc tố.
Về khả năng dung nạp, bệnh nhân dùng bakuchiol có ít tác dụng phụ trên da hơn so với những người dùng retinol, ít châm chích và bong tróc hơn. Ngoài các đặc tính chống oxy hóa của nó, điều này cũng có thể liên quan đến tác dụng chống viêm của bakuchiol. Hơn nữa, bakuchiol cho thấy không làm tăng nhạy cảm ánh sáng, các sản phẩm retinoid làm tăng nhạy sáng.
Điều thú vị là một trong những bệnh nhân trong nhóm dùng bakuchiol ghi nhận rằng vảy da dọc theo chân tóc giảm bớt khi bôi tại chỗ, mặc dù nghiên cứukhông đánh giá về việc điều trị gàu hoặc viêm da tiết bã, nhưng điều đáng chú ý là bakuchiol đã biết đến với hoạt tính chống nấm.

Chất dưỡng ẩm trong chăm sóc da - Dịch- Bs. Trương Tấn Minh Vũ

  Link tải file pdf: https://drive.google.com/file/d/1QJYFAHEkdNiJxObPcTDoFPQq9hUnDsrN/view?usp=sharing